Bước tới nội dung

Uzbekistan

Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Cộng hòa Uzbekistan
Tên bản ngữ
  • Ўзбекистон Республикаси (tiếng Uzbek)
    Oʻzbekiston Respublikasi
    Республика Узбекистан (tiếng Nga)

Quốc ca
O'zbekiston Respublikasining Davlat Madhiyasi
Quốc ca Nhà nước Cộng hoà Uzbekistan
Vị trí của Uzbekistan (xanh)
Vị trí của Uzbekistan (xanh)
Vị trí Uzbekistan (đỏ) trong khu vực
Vị trí Uzbekistan (đỏ) trong khu vực
Tổng quan
Thủ đô
và thành phố lớn nhất
Tashkent
41°19′B 69°16′Đ / 41,317°B 69,267°Đ / 41.317; 69.267
Ngôn ngữ chính thứcTiếng Uzbek[2][3]
• Ngôn ngữ địa phương Tiếng Karakalpak[2]
Ngôn ngữ liên dân tộcTiếng Nga[4][5]
Ngôn ngữ khácTiếng TajikTiếng KazakhTiếng TatarTiếng KyrgyzKoryo-marTiếng TurkmenTiếng Đông ArmeniaTiếng UkrainaTiếng Tatar KrymTiếng AzerbaijanTiếng Duy Ngô NhĩTiếng ParyaTiếng Ả Rập Trung ÁBukhoriTiếng Thổ Nhĩ Kỳ MeskhetianTiếng Bashkir và nhiều ngôn ngữ khác
Sắc tộc
(2019[6])
Tôn giáo chính
Tên dân cưNgười Uzbek
Chính trị
Chính phủCộng hoà lập hiến tổng thống
Shavkat Mirziyoyev
Abdulla Aripov
• Chủ tịch Thượng viện
Tanzila Narbayeva
• Chủ tịch Viện Lập pháp
Nurdinjan Ismailov
Lập phápOliy Majlis
Thượng viện
Viện Lập pháp
Lịch sử
Thành lập
1785
30 tháng 4 năm 1920
27 tháng 10 năm 1924
• Tuyên bố độc lập khỏi Liên Xô
1 tháng 9 năm 1991a
• Quốc tế công nhận
26 tháng 12 năm 1991
2 tháng 3 năm 1992
8 tháng 12 năm 1992
Địa lý
Diện tích 
• Tổng cộng
448,978 km2 (hạng 56)
172,742 mi2
• Mặt nước (%)
4,9
Dân số 
• Ước lượng 2020
33.570.609[7] (hạng 41)
74,1/km2 (hạng 132)
182,8/mi2
Kinh tế
GDP  (PPP)Ước lượng 2020
• Tổng số
$275,806 tỉ[8] (hạng 55)
$9.595[8] (hạng 113)
GDP  (danh nghĩa)Ước lượng 2020
• Tổng số
$60,490 tỉ[8] (hạng 78)
• Bình quân đầu người
$1.831[8] (hạng 144)
Đơn vị tiền tệsoʻm Uzbekistan (UZS)
Thông tin khác
Gini? (2013)Giảm theo hướng tích cực 36,7[9][10]
trung bình
HDI? (2019)Tăng 0,720[11]
cao · hạng 106
Múi giờUTC+5 (UZT)
Giao thông bênphải
Mã điện thoại+998
Mã ISO 3166UZ
Tên miền Internet.uz
  1. Vào ngày 31 tháng 8 năm 1991, Xô viết tối cao Uzbekistan đã tổ chức thành công trưng cầu dân ý về việc li khai khỏi Liên Xô. Ngày kế tiếp đó được chọn làm ngày nghỉ lễ, sau trở thành ngày Độc lập của Uzbekistan.

Uzbekistan (phiên âm tiếng Việt: "U-dơ-bê-ki-xtan"), tên chính thức Cộng hòa Uzbekistan (tiếng Uzbek: O‘zbekiston Respublikasi), là một quốc gia nằm kín trong lục địa tại Trung Á, trước kia từng là một phần của Liên bang Xô viết. Nước này có chung biên giới với Kazakhstan ở phía tây và phía bắc, KyrgyzstanTajikistan ở phía đông, và Afghanistan cùng Turkmenistan ở phía nam.

Lãnh thổ hiện tại của Uzbekistan trong thời cổ đại là một phần của vùng nói ngữ chi Iran của Transoxiana, với các thành phố như Samarkand, Bukhara, và Khiva mà đã trở nên thịnh vượng nhờ Con đường tơ lụa. Những người định cư đầu tiên đến lãnh thổ này được gọi là những người Scythia. Các nền văn minh sớm nhất bao gồm Khwarezm (thế kỷ VIII-VI TCN), Bactria (thế kỷ VIII-VI TCN), Sogdiana (thế kỷ VIII-VI TCN), Fergana (thế kỷ III TCN - thế kỷ VI), và Margiana (thế kỷ III TCN - thế kỷ VI), do những bộ lạc Tây Iran lập ra.

Khu vực này được nhập vào Đế quốc Ba Tư, và sau đó sụp đổ với cuộc chinh phục của người Hồi giáo vào thế kỷ thứ VII, biến phần lớn dân số thành tín đồ Hồi giáo. Sau sự kế nhiệm của các vua địa phương nhà Khwarezm-Shah trong thế kỷ XI, vùng này đã thất thủ trước cuộc xâm lược của Mông Cổ vào thế kỷ XIII. Thành phố Shahrisabz là nơi sinh của Thiếp Mộc Nhi, người trong thế kỷ XIV thành lập nhà Timur và tự tuyên bố là Đế Chế Tối cao Turan. Vùng này sau đó bị quân Uzbek Shaybanid chinh phục trong thế kỷ XVI, di chuyển trung tâm quyền lực từ Samarkand tới Bukhara. Khu vực này được chia thành ba nhà nước: Hãn quốc Khiva, Hãn quốc Kokand, và Tiểu Vương quốc Bukhara.

Nó đã được dần dần kết hợp vào Đế quốc Nga trong thế kỷ XIX, với Tashkent trở thành trung tâm chính trị của Turkestan thuộc Nga. Năm 1924, sau khi phân định quốc gia, nước cộng hòa cấu thành Liên Xô được biết đến với cái tên Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Xô viết Uzbekistan được thành lập. Sau khi Liên Xô tan rã, quốc gia này tuyên bố độc lập với tên mới Cộng hòa Uzbekistan vào ngày 31 tháng 8 năm 1991.

Lịch sử

[sửa | sửa mã nguồn]
Người Nga bị quân Khiva đánh bại ở Uzbekistan, Trung Á năm 1871

Vùng đất Uzbekistan có người ở từ hai nghìn năm trước Công nguyên. Có nhiều di tích về những công cụ và công trình của loài người từ thời kỳ sớm tại các vùng Ferghana, Tashkent, Bukhara, Khorezm (Khwarezm, Chorasmia) và Samarkand.

Alexandros Đại Đế chinh phục Sogdiana và Bactria năm 327 trước Công nguyên, cưới Roxana, con gái của vị thủ lĩnh Bactrian địa phương. Tuy nhiên, cuộc chinh phục được cho là không mang lại nhiều kết quả cho Alexandros bởi những cuộc kháng chiến của người dân địa phương khá mãnh liệt, khiến quân đội của Alexandros bị sa lầy trong vùng.

Trong nhiều thế kỷ vùng Uzbekistan nằm dưới quyền cai trị của các Đế chế Iran như Đế chế ParthianSassanid.

Ở thế kỷ XIV, Timur, thường được gọi là Tamerlane ở phương tây, nổi lên thay thế người Mông Cổ và xây dựng một đế chế. Trong các chiến dịch quân sự của mình, Tamerlane đã tiến xa tới tận Trung Đông. Ông đánh bại Hoàng đế Đế chế Thổ Nhĩ Kỳ Ottoman Bayezid I. Bayezid bị bắt và chết trong khi bị giam cầm. Tamerlane tìm cách xây dựng thủ đô đế chế của mình tại Samarkand. Ngày nay Tamerlane được coi là một trong những anh hùng vĩ đại nhất của Ụzbekistan, là người đóng vai trò quan trọng trong lịch sử và đặc tính quốc gia. Sau sự sụp đổ của Đế chế Timurid, những người du mục Uzbek đã chinh phục vùng này.

thế kỷ XIX, Đế chế Nga bắt đầu mở rộng và kéo dài tới tận Trung Á. Giai đoạn "Great Game" nói chung được coi là bắt đầu từ khoảng năm 1813 cho tới Hiệp ước Anh Nga năm 1907. Sau cuộc cách mạng của những người Bolshevik năm 1917, một thời kỳ ổn định hơn diễn ra. Đầu thế kỷ XIX, một vùng đất khoảng 2.000 dặm (3.200 km) chia cắt Ấn Độ thuộc Anh và những vùng xa xôi của nước Nga Sa Hoàng. Đa số vùng đất đệm này còn chưa được vẽ bản đồ.

Tới đầu thế kỷ XX, Trung Á đã hoàn tay rơi vào tay người Nga dù một số cuộc kháng chiến chống người Bolsheviks có xảy ra trong thời kỳ đầu, Uzbekistan và phần còn lại của Trung Á trở thành một phần của Liên bang Xô viết. Ngày 31 tháng 8 năm 1991, Uzbekistan bất đắc dĩ tuyên bố độc lập, và ngày 1 tháng 9 trở thành ngày quốc khánh.

Nước này hiện đang tìm cách dần giảm sự phục thuộc vào nông nghiệp - đây là nước xuất khẩu bông lớn thứ hai thế giới - trong khi vẫn phát triển các nguồn tài nguyên khoáng sảndầu mỏ.

Địa lý

[sửa | sửa mã nguồn]
Bản đồ Uzbekistan

Uzbekistan có diện tích 447.400 kilômét vuông. Đây là nước lớn thứ 56 trên thế giới.

Uzbekistan trải dài 1.425 kilômét từ tây sang đông và 930 kilômét từ bắc tới nam. Giáp biên giới với Turkmenistan ở phía tây nam, KazakhstanBiển Aral ở phía bắc, và Tajikistan cùng Kyrgyzstan ở phía nam và phía đông, Uzbekistan không phải là một trong những nước lớn nhất vùng Trung Á nhưng là quốc gia Trung Á duy nhất giáp biên giới với tất cả bốn nước kia. Uzbekistan cũng giáp biên giới với Afghanistan ở phía nam.

Uzbekistan là một quốc gia nằm kín trong lục địa; 10% lãnh thổ nước này có thể trồng trọt thâm canh nhờ nước tưới tiêu từ các lưu vực sông. Đây là một trong hai quốc gia duy nhất chỉ giáp với các quốc gia nội lục khác - nước kia là Liechtenstein; song trường hợp của Uzbekistan không rõ ràng do họ giáp biên giới với hai nước (Kazakhstan ở phía bắc và Turkmenistan ở phía nam) giáp với Biển Caspi kín trong lục địa nhưng từ đây tàu thủy có thể đi tới Biển Azov và từ đó tới Biển Đen, Địa Trung Hải và các đại dương khác.

Điểm cao nhất tại Uzbekistan là Adelunga Toghi ở độ cao 4.301 mét (14.111 ft).

Khí hậu Cộng hòa Uzbekistan là khí hậu lục địa, với lượng mưa hàng năm khoảng 100-200 milimét. Nhiệt độ trung bình mùa hè thường khoảng 400C, mùa đông khoảng -230C.[12]

Các thành phố lớn gồm: Bukhara, SamarqandTashkent.

Hành chính

[sửa | sửa mã nguồn]

Uzbekistan được chia thành mười hai tỉnh (viloyatlar, số ít viloyat; viloyati từ ghép, ví dụ Toshkent viloyati, Samarqand viloyati, vân vân), một nước cộng hòa tự trị (respublika; respublikasi từ ghép, ví dụ Qaraqalpaqstan Avtonom Respublikasi, Karakalpakistan Cộng hòa Tự trị, vân vân), và một thành phố độc lập (shahar; shahri từ ghép, ví dụ thành phố Tashkent, Toshkent shahri). Các tên được đặt theo ngôn ngữ Uzbek, dù nhiều biến thể trong khi dịch qua ngôn ngữ khác vẫn tồn tại.

Bản đồ hành chính Uzbekistan

Phân loại Thành phố thủ phủ Diện tích
(km²)
Dân số Key
Andijon Viloyati Andijon 4.200 1.899.000 2
Buxoro Viloyati Buxoro (Bukhara) 39.400 1.384.700 3
Farg'ona Viloyati Farg'ona (Fergana)  6.800 2.597.000 4
Jizzax Viloyati Jizzax 20.500 910.500 5
Xorazm Viloyati Urganch 6.300  1.200.000 13
Namangan Viloyati Namangan 7.900 1.862.000 6
Navoiy Viloyati Navoiy 110.800 767.500 7
Qashqadaryo Viloyati Qarshi 28.400 2.029.000 8
Qaraqalpaqstan Respublikasi Nukus 160.000 1.200.000 14
Samarqand Viloyati Samarqand 16.400  2.322.000 9
Sirdaryo Viloyati Guliston 5.100 648.100 10
Surxondaryo Viloyati Termez 20.800 1.676.000 11
Toshkent Viloyati Toshkent (Tashkent) 15.300  4.450.000 12
Toshkent Shahri Toshkent (Tashkent) Không dữ liệu 2.205.000 1

Số thống kê cho Toshkent Viloyati cũng gồm số thống kê của Toshkent Shahri.

Cùng với nhiều nền kinh tế của các quốc gia thuộc Cộng đồng các quốc gia độc lập khác, kinh tế Uzbekistan gần đây có mức độ phát triển kinh tế rất cao, tới 9.1% trong quý đầu năm 2007, và mức lạm phát thấp 2.9%.[13] Tính đến năm 2016, GDP của Uzbekistan đạt 66,797 tỉ USD, đứng thứ 74 thế giới, đứng thứ 26 châu Á và đứng thứ 2 Trung Á sau Kazakhstan.

Uzbekistan là quốc gia có mức GNI trên đầu người năm 2019 là $1,800US[14]Sức mua tương đương đạt US$7450[15]. Sản xuất kinh tế tập trung ở hàng tiêu dùng: Uzbekistan hiện là nước sản xuất lớn thứ tư thế giới và là nước xuất khẩu bông lớn thứ hai thế giới, thứ bảy thế giới về sản xuất vàng. Theo vùng, đây cũng là nước sản xuất khí gas, đồng, than, dầu mỏ, bạc và uranium khá quan trọng[16]. Nông nghiệp đóng góp khoảng 37% GDP và sử dụng 44% nguồn nhân lực[17]. Tình trạng thất nghiệp và thiếu việc làm được ước tính dưới 20%[17].

Tashkent, thủ đô Uzbekistan.

Đối mặt với nhiều thách thức kinh tế từ khi giành lại độc lập, chính phủ đã chấp nhận một chiến lược cải cách mang tính cách mạng, với sự nhấn mạnh trên sự kiểm soát của nhà nước, giảm nhập khẩu và tự cung cấp trong lĩnh vực năng lượng. Từ năm 1994, các phương tiên truyền thông thuộc quản lý của nhà nước đã nhiều lần tuyên bố sự thành công của "Mô hình Kinh tế Uzbek" này[18][19] coi đó là ví dụ duy nhất về sự chuyển tiếp êm ả sang nền kinh tế thị trường, tránh được tình trạng sốc, sự bần cùng hóa và sự trì trệ.

Chiến lược cải cách dần dần đã khiến nhiều kế hoạch cải cách cơ cấu và kinh tế vĩ mô bị trì hoãn. Chính quyền trong tay giới công chức quan liêu vãn giữ ảnh hưởng mạnh trong nền kinh tế. Tham nhũng lan tràn xã hội: Chỉ số Nhận thức Tham nhũng Uzbekistan năm 2005 là 137 trong số 159 quốc gia. Một báo cáo tháng 2 năm 2006 về nước này của Nhóm Khủng hoảng Quốc tế đã viết về một khía cạnh của tình trạng tham nhũng này:

Đa phần tăng trưởng GDP Uzbekistan xuất phát từ giá cả cao của những loại hàng xuất khẩu quan trọng, đặc biệt là vàng, bông và nguồn thu ngày càng tăng từ khí gas, nhưng nguồn thu này chỉ được phân chia trong một nhóm rất nhỏ cầm quyền, đại đa số nhân dân có rất ít hoặc không một chút nào từ các khoản thu này.[20][21].

Theo Economist Intelligence Unit, "chính phủ tỏ thái độ kiên quyết không cho phép phát triển một lĩnh vực tư nhân độc lập, lĩnh vực họ không thể kiểm soát" [18] Lưu trữ 2008-12-16 tại Wayback Machine. Vì thế, giới trưởng giả nói chung và tầng lớp trung lưu nói riêng, đang bị cách ly về mặt kinh tế, và vì thế, cả với chính trị.

Các chính sách kinh tế đã làm nản lòng giới đầu tư, với mức đầu tư trên đầu người ở mức thấp nhất trong Cộng đồng các quốc gia độc lập[22]. Trong nhiều năm, rào cản lớn nhất với các công ty nước ngoài muốn vào thị trường Uzbek là sự khó khăn trong chuyển đổi tiền tệ. Năm 2003, chính phủ đã chấp nhận những bắt buộc của Điều VIII của Quỹ Tiền tệ Quốc tế[23], cho phép tự do chuyển đổi tiền tệ. Tuy nhiên, những biện pháp quản lý tiền tệ chặt chẽ và kiểm soát biên giới đã khiến những hiệu quả mang lại của việc này không lớn.

Lạm phát, dù ở mức thấp hơn thời gian giữa thập niên 1990, vẫn còn cao cho tới tận năm 2003 (ước tính 50% năm 2002, 21.9% năm 2003[24]). Các chính sách kinh tế chặt chẽ năm 2004 đã khiến lạm phát giảm mạnh, xuống còn 3.8% (tuy nhiên những ước tính khác[25][26] dựa trên rổ thị trường thực ở mức 15%). Tuy nhiên, sự giảm lạm phát dường như chỉ thoảng qua, bởi theo ước tính của IMF về chỉ số giá tiêu thụ dựa trên lạm phát tại Uzbekistan năm 2005 là 14.1%[27].

Chính phủ Uzbekistan hạn chế nhập khẩu bằng nhiều cách, gồm cả đánh thuế nhập khẩu cao. Các loại thuế áp dụng mang tính phân biệt cao để bảo vệ các sản phẩm sản xuất trong nước. Các mức thuế chính thức được công thêm các khoản không chính thức, các khoản phí mang tính phân biệt khiến tổng số tiền phải trả lên tới 100 hay 150 phần trăm giá trị thực của sản phẩm, khiến những sản phẩm nhập khẩu có giá thành không thể chấp nhận với người tiêu dùng[28][29]. Thay thế xuất khẩu là một chính sách được tuyên bố chính thức và chính phủ đã lấy làm hãnh diện thông báo[30] con số hàng tiêu dùng nhập khẩu đã giảm hai lần. Một số quốc gia thuộc cộng đồng các quốc gia độc lập được chính thức miễn trừ các khoản thuế nhập khẩu của Uzbekistan.

Kinh doanh tại Uzbekistan không đơn giản. Nó đòi hỏi nhiều đầu tư và mối quan hệ với tầng lớp cầm quyền. Tuy nhiên, lợi nhuận hàng năm có thể thu được sẽ ở trong khoảng 30-40%. Lĩnh vực đầu tư mang lại nhiều lợi nhuận nhất hiện tại là bất động sản. Trong năm 2006, bất động sản đã tăng trưởng tới 80%.[31]

Nhân khẩu

[sửa | sửa mã nguồn]
Hai cô gái Uzbek tại Samarcanda

Uzbekistan là nước đông dân nhất vùng Trung Á. Dân số nước này ước tính đạt 27,7 triệu người[32], tập trung tại phía nam và phía đông đất nước, chiếm tới gần một nửa dân số trong vùng. Uzbekistan từng là một trong những nước cộng hòa nghèo nhất thuộc Liên bang Xô viết[33]; đa số dân cư nước này tham gia vào ngành nông nghiệp bông tại các hợp tác xã nhỏ (kolkhozy). Trong những năm gần đây, số lượng dân nông thôn tiếp tục gia tăng, hiện ở mức 63.5%. Dân số Uzbekistan rất trẻ: 34.1% dân dưới 14 tuổi.

Người Uzbek chiếm đa số dân (80%). Các nhóm sắc tộc khác gồm người Nga 5.5%, Tajik 5%, Kazakh 3%, Karakalpak 2.5%, và Tatar 1.5%[34]. Cũng có một nhóm sắc tộc người Triều Tiên đã bị buộc phải di dời tới Uzbekistan theo lệnh của Stalin trong thập niên 1930. 88% dân số là tín đồ Hồi giáo (chủ yếu thuộc dòng Sunni, với nhóm thiểu số 5% Shi'a), 9% Nhà thờ chính thống Phương đông và 3% theo những đức tin khác. Theo Báo cáo Tự do Tôn giáo Quốc tế năm 2004 của Bộ ngoại giao Mỹ 0.2% dân số theo Đạo Phật (những người này thuộc cộng đồng Triều Tiên). Tương tự, ước tính 93.000 người Do thái từng sống tại Uzbekistan đầu thập niên 1990 (nguồn Thư viện Quốc hội Nghiên cứu Quốc gia).

Uzbek là ngôn ngữ chính thức duy nhất của quốc gia. Tuy nhiên, tiếng Nga trên thực tế là ngôn ngữ giao tiếp giữa các cộng đồng sắc tộc, gồm cả được sử dụng đa số trong kỹ thuật, khoa học, văn bản chính phủ và công việc kinh doanh hàng ngày. Theo dân tộc học, 49% dân số Uzbekistan nói tiếng Nga.

Tiếng Tajik được sử dụng rộng rãi tại thành phố Samarkand và Bukhara. Có một số tranh cãi liên quan tới số phần trăm dân số Tajik. Trong khi các con số chính thức của Uzbekistan cho rằng số lượng là 5%, một số học giả phương Tây tin rằng con số này cao hơn, lên tới 40%[35].

Uzbekistan có tỷ lệ biết chữ 99.3% (trong số người lớn hơn 15 tuổi), một phần nhờ hệ thống giáo dục miễn phí và phổ thông thời Liên bang Xô viết.

Cơ sở hạ tầng

[sửa | sửa mã nguồn]

Viễn thông

[sửa | sửa mã nguồn]

Theo số liệu chính thức, tính đến 1 tháng 7 năm 2007, có 3,7 triệu người sử dụng điện thoại di động ở Uzbekistan (nguồn từ Tổ chức Viễn thông và Thông tin Uzbekistan (UzACI)[36][37] và UzDaily.com[38]). Đơn vị kinh doanh dịch vụ di động lớn nhất (tính theo số khách hàng) là MTS-Uzbekistan[39][40] (trước là Uzdunrobita và là chi nhánh của Russian Mobile TeleSystems). Tiếp theo là Beeline[41](là một chi nhánh của công ty Beeline của Nga) và Coscom [42][43] (do US MCT Corp. sở hữu, nhưng có thông tin cho rằng TeliaSonera đang mua lại công ty này[44]).

Tính đến 1 tháng 7 năm 2007, số người sử dụng internet ở Uzbekistan ước tính là 1,8 triệu, theo thống kê của UzACI.

Vận tải

[sửa | sửa mã nguồn]

Tashkent, thủ đô và là thành phố lớn nhất nước, có ba đường tàu điện ngầm được xây dựng năm 1977, và mở rộng năm 2001 mười năm sau khi giành lại độc lập từ Liên bang Xô viết. Có tàu điện, xe buýt và trolleybus (xe buýt chạy nối với hệ thống dây điện bên trên) do chính phủ điều hành chạy khắp thành phố. Tương tự, có nhiều xe tắc xi cả xe có đăng ký và xe dù. Các nhà máy sản xuất ô tô tại Uzbekistan đang làm ra những chiếc xe hiện đại. Chính phủ hỗ trợ việc sản xuất xe hơi và công ty Daewoo Hàn Quốc. Chính phủ Uzbek có 50% cổ phần của Daewoo năm 2005 với trị giá không được tiết lộ vào tháng 5 năm 2007 UzDaewooAuto, công ty sản xuất ô tô, đã ký kết thỏa thuận chiến lược với General Motors-Daewoo Auto and Technology (GMDAT)[45]. Chính phủ cũng mua cổ phần của công ty Koc in SamKocAuto, công ty sản xuất xe buýt và xe tải nhỏ Thổ Nhĩ Kỳ. Tiếp đó, chính phủ đã ký thỏa thuận với Isuzu Motors Nhật Bản để sản xuất xe buýt và xe tải[46].

Những tuyến đường sắt nối liền các thị trấn bên trong Uzbekistan cũng như với các nước cộng hòa cũ thuộc Liên bang Xô viết. Hơn nữa, sau khi giành lại độc lập hai hệ thống tàu hỏa chạy nhanh đã được thiết lập. Tương tự, đã có một nhà máy chế tạo máy bay lớn thời Xô viết, Nhà máy Sản Xuất Hàng không Tashkent Chkalov, hay ТАПОиЧ trong tiếng Nga. Nhà máy này bắt đầu được xây dựng trong Thế Chiến II, khi các cơ sở chế tạo được di dời về phía nam và phía đông để tránh rơi vào tay các lực lượng Phát xít Đức. Cho tới tận cuối thập niên 1980, nhà máy là một trong những trung tâm sản xuất máy bay hàng đầu tại Liên bang Xô viết, nhưng do sự sụp đổ của Liên Xô các thiết bị của nhà máy dần trở nên lỗi thời, và đa số công nhân đã bỏ việc. Hiện nhà máy chỉ sản xuất vài chiếc máy bay mỗi năm, nhưng với sự chú ý từ các công ty Nga tới nhà máy này, hiện có tin đồn rằng các kế hoạch tái khôi phục đang chuẩn bị thực thi.

Môi trường

[sửa | sửa mã nguồn]

Tình hình môi trường hiện tại tại Uzbekistan là một mối lo ngại trong cộng đồng quốc tế. Hàng thập kỷ áp dụng các chính sách mang tư duy sai lầm thời Xô viết nhằm mở rộng tối đa diện tích trồng bông đã mang lại một thảm họa thiên nhiên cho nước này. Công nghiệp nông nghiệp dường như là yếu tố chính gây ô nhiễm và xuống cấp không khí và nước.[47]

Thảm hoạ Biển Aral chính là một ví dụ kinh điển. Một vấn đề còn lại ai là người chịu trách nhiệm cho thảm họa này: các nhà khoa học và chính trị Xô viết những người đã ra lệnh ngăn nước dẫn tới bắt đầu thảm họa trong thập niên sáu mươi, hay những chính sách thời hậu Xô viết khi việc thiếu tiền xây dựng các đập chắn và hệ thống tưới tiêu là nguyên nhân. Biển Aral từng là biển nội địa lớn thứ tư trên Trái đất, hoạt động như một yếu tố điều hòa độ ẩm không khí.[48][49]

Từ thập niên 1960, khi việc sử dụng sai lầm nguồn nước Biển Aral bắt đầu, Biển Aral đã giảm 50% diện tích, và giảm thể tích chỉ còn một phần ba. Những dự liệu đáng tín cậy và chính xác nhất vẫn chưa được thu thập, lưu trữ hay cung cấp bởi bất kỳ một tổ chức hay cơ quan chính thức nào. Số lượng con người và động vật bị ảnh hưởng bởi thảm họa này chỉ có thể được ước đoán. Vì vấn đề Biển Aral, tình trạng tập trung độ mặn cao là điều bình thường tại Uzbekistan. Đa số các nguồn nước của quốc gia này được dùng cho nông ngiệp, chiếm gần 94% sự sử dụng nước.[12] Cùng với đó là việc phải đầu tư, sử dụng rất nhiều thuốc trừ sâu và phân bón.[12]

Quân đội

[sửa | sửa mã nguồn]

Uzbekistan sở hữu lực lượng quân sự lớn nhất vùng Trung Á, với khoảng 65.000 quân nhân. Cơ cấu của lực lượng này được thừa kế từ các lực lượng vũ trang Xô viết, dù nó đang nhanh chóng chuyển đổi trở thành một tổ chức đã được tái cơ cấu hoàn toàn, và cuối cùng sẽ được xây dựng xung quanh các lực lượng hạng nhẹ và lực lượng đặc biệt. Trang bị của Các lực lượng vũ trang Uzbek không hiện đại, và công tác huấn luyện, tuy có được cải thiện nhưng không đồng nhất và thích đáng để đáp ứng cho nhiệm vụ bảo vệ an ninh lãnh thổ mới. Chính phủ đã chấp nhận các biện pháp quản lý vũ khí của Liên Xô cũ, thừa nhận Hiệp ước Không Phổ biến Vũ khí Hạt nhân (với tư cách nước phi hạt nhân), và ủng hộ một chương trình Cơ quan Giảm nhẹ Đe dọa Quốc phòng (DTRA) của Hoa Kỳ tại tây Uzbekistan (NukusĐảo Vozrozhdeniye). Chính phủ Uzbekistan chi khoảng 3.7% GDP cho quân đội nhưng có được viện trợ Tài chính Quân sự Nước ngoài (FMF) cùng khác khoản hỗ trợ an ninh ngày càng lớn khác từ năm 1998. Uzbekistan đã chấp nhận yêu cầu của Sở chỉ huy Trung ương Hoa Kỳ cho phép sử dụng một căn cứ không quân quân sự có vai trò sống còn, Căn cứ không quân Karshi-Khanabad, phía nam Uzbekistan sau các vụ tấn công ngày 11 tháng 9 năm 2001. Sau vụ Thảm sát Andijan và phản ứng sau đó của Hoa Kỳ, Uzbekistan đã yêu cầu quân Mỹ rút khỏi các căn cứ không quân này. Những quân nhân Mỹ cuối cùng rời Uzbekistan tháng 11 năm 2005.

Quan hệ ngoại giao

[sửa | sửa mã nguồn]

Uzbekistan gia nhập Cộng đồng các quốc gia độc lập vào tháng 12 năm 1991. Tuy nhiên, họ phản đối việc phục hồi và rút lui khỏi thỏa thuận an ninh tập thể của cộng đồng năm 1999. Từ thời điểm đó, Uzbekistan đã tham gia vào lực lượng gìn giữ hòa bình của Cộng đồng tại Tajikistan và trong những nhóm do Liên hiệp quốc tổ chức nhằm giải quyết những cuộc xung đột Tajik và Afghan, mà họ coi là những nguy cơ tiềm tàng cho sự ổn định của mình.

Trước kia có quan hệ gần gũi với Washington (mối quan hệ mang lại cho Uzbekistan nửa tỷ dollar viện trợ năm 2004, khoảng một phần tư ngân sách quân sự của họ), chính phủ Uzbekistan đã hạn chế việc sử dụng căn cứ quân sự tại Karshi-Khanabad cho những chiến dịch tấn công vào nước Afghanistan láng giềng của Hoa Kỳ[50][51]).

Uzbekistan từng là nước nhiệt thành ủng hộ các nỗ lực của Hoa Kỳ chống chủ nghĩa khủng bố trên thế giới và đã gia nhập liên minh quân sự ở cả Afghanistan và Iraq. Quan hệ giữa Uzbekistan và Hoa Kỳ đã bắt đầu xấu đi sau cái gọi là "những cuộc cách mạng màu" tại Georgia và Ukraina (và ở mức độ thấp hơn là Kyrgystan). Khi Hoa Kỳ lên tiếng cùng cộng đồng đòi hỏi tiến hành một cuộc điều tra quốc tế về những sự kiện đẫm máu tại Andijon, mối quan hệ xấu đi nhanh chóng và Tổng thống Islam Karimov đã thay đổi liên kết chính trị chuyển sang gần gũi hơn với nước Nga và Trung Quốc, những nước đã không chỉ trích những vị lãnh đạo Uzbekistan vì cái gọi là những hành động vi phạm nhân quyền.

Cuối tháng 7 năm 2005, chính phủ Uzbekistan đã ra lệnh cho quân Mỹ rút khỏi một căn cứ không quân tại Karshi-Kanabad (gần biên giới Uzbek với Afghanistan) trong 180 ngày. Karimov đã đề xuất cho phép Hoa Kỳ sử dụng căn cứ này ngay sau vụ khủng bố 11 tháng 9. Một số người Uzbek cũng tin rằng các cuộc tuần hành tại Andijan có sự ảnh hưởng phía sau của Mỹ và Anh trong vùng Andijan. Vì thế, đây là một lý do khác cho sự thù địch giữa Uzbekistan và phương Tây.

Uzbekistan là một thành viên Liên hiệp quốc (từ ngày 2 tháng 3 năm 1992), Hội đồng Cộng tác Euro-Atlantic, Cộng tác vì Hòa bình, và Tổ chức An ninh và Hợp tác châu Âu (OSCE). Nước này cũng là một thành viên của Tổ chức Hội nghị Hồi giáo (OIC) và Tổ chức Hợp tác Kinh tế (gồm năm quốc gia Trung Á, Azerbaijan, Thổ Nhĩ Kỳ, Iran, Afghanistan, và Pakistan). Năm 1999, Uzbekistan gia nhập liên minh GUAM (Georgia, Ukraina, Azerbaijan và Moldova), được thành lập từ năm 1997 (biến nó thành GUUAM), nhưng đã rút lui năm 2005. Uzbekistan cũng là một thành viên của Tổ chức Hợp tác Thượng Hải (SCO) và đã đứng ra tổ chức Cơ cấu Chống Khủng bố cấp Vùng (RATS) của SCO tại Tashkent. Uzbekistan cũng đã gia nhập Tổ chức Hợp tác Trung Á (CACO) năm 2002. CACO gồm Uzbekistan, Tajikistan, Kazakhstan, và Kyrgyzstan. Nước này là thành viên sáng lập và hiện vẫn tham gia Liên minh Trung Á, cùng Kazakhstan và Kyrgyzstan, tháng 3 năm 1998 Tajikistan cũng gia nhập tổ chức này.

Tháng 9, UNESCO đã bày tỏ ý định trao cho Islam Karimov một giải thưởng về sự bảo tồn nền văn hóa và truyền thống phong phú của Uzbekistan. Dù vị Tổng thống này vẫn bị phương tây chỉ trích, đây có thể coi là một dấu hiệu cải thiện quan hệ giữa Uzbekistan và phương Tây.

Tháng 10 năm 2006 có lẽ là thời điểm Uzbekistan không còn bị phương Tây cô lập. EU gần đây đã thông báo họ có kế hoạch gửi các đoàn đại biểu tới Uzbekistan để đàm phán về nhân quyền và tự do sau một giai đoạn quan hệ thù địch khá dài giữa hai bên. Dù sự thực về Vụ thảm sát Andijan vẫn chưa được khám phá, EU đã bày tỏ quan tâm tới việc giảm bớt các biện pháp trừng phạt kinh tế chống Uzbekistan. Tuy nhiên, trong cộng đồng dân cư Uzbek quan điểm chung vẫn cho rằng chính phủ sẽ bảo vệ lập trường của mình và giữ quan hệ bền chặt với Liên bang Nga và tiếp tục chỉ trích rằng những cuộc tuần hành phản kháng năm 2004-2005 tại Uzbekistan có bàn tay xúi giục của Hoa KỳAnh Quốc.

Tôn giáo

[sửa | sửa mã nguồn]
Tôn giáo tại Uzbekistan (2004)[52]
Tôn giáo Tỷ lệ
Hồi giáo
  
88%
Chính thống giáo Đông Phương
  
9%
Tôn giáo khác
  
3%

Hồi giáo là đến nay là tôn giáo chiếm ưu thế ở Uzbekistan với 90% dân số trong khi 5% dân số theo Chính Thống giáo Nga, và 5% dân số theo tôn giáo khác.[53] Tuy nhiên, một báo cáo nghiên cứu của tổ chức Pew Center vào năm 2009 cho biết có đến 96,3% dân số theo Hồi giáo.[54] Ước tính có khoảng 93.000 người Do Thái giáo đã từng hiện diện tại quốc gia này.

Tuy là tôn giáo lớn nhất nước, nhưng sự thực hành đạo Hồi là rất ít. Có nhiều truyền thống Hồi giáo được thực hành tại Uzbekistan đã dẫn đến sự xung đột. Điều này đang làm Hồi giáo ở quốc gia này suy giảm nghiêm trọng. Sự chấm dứt quyền lực của Liên Xô tại Uzbekistan đã không mang lại một sự bùng nổ của trào lưu Hồi giáo chính thống, như nhiều người dự đoán, mà là một sự xa rời dần với giới luật và đức tin Hồi giáo.

Mặc dù hiến pháp duy trì quyền tự do tôn giáo, Uzbekistan vẫn duy trì lệnh cấm tất cả các hoạt động tôn giáo không được sự chấp thuận của nhà nước, đặc biệt là sự đối xử khắc nghiệt của chính quyền với các Kitô hữu, tín đồ Tin Lành. Song hai tôn giáo nêu trên vẫn là những tôn giáo khá phổ biến trong nhân dân.

Thể thao

[sửa | sửa mã nguồn]

Uzbekistan có một nền thể thao đang nổi ở châu Á với những bộ môn từng phổ biến ở Liên Xô cũ như quần vợt, cờ vua và bóng đá. Với bóng đá thì đội tuyển quốc gia của họ đã tham dự cả bảy kì AFC Asian Cup gần nhất còn các cấp độ tuyển trẻ thì có đội U-23 từng vô địch Asian Games 1994U-23 châu Á 2018 còn U-20 từng giành ngôi Á quân giải châu lục năm 2008, cũng là thành tích mà đội U-17 đạt được năm 2010, chỉ khác là ở tại quê nhà Uzbekistan, trước khi lên ngôi vô địch lịch sử mùa kế tiếp trên đất Iran. Uzbekistan từng được xếp vào tốp 10 nền bóng đá mạnh ở châu Á và đứng đầu khu vực Trung Á.

Thư mục

[sửa | sửa mã nguồn]
  • Chasing the Sea: Lost Among the Ghosts of Empire in Central Asia by Tom Bissell
  • A Historical Atlas of Uzbekistan by Aisha Khan
  • The Modern Uzbeks From the 14th Century to the Present: A Cultural History by Edward A. Allworth
  • Nationalism in Uzbekistan: Soviet Republic's Road to Sovereignty by James Critchlow
  • Odyssey Guide: Uzbekistan by Calcum Macleod and Bradley Mayhew
  • Uzbekistan: Heirs to the Silk Road by Johannes Kalter and Margareta Pavaloi
  • "Silk Road to Ruin: Is Central Asia the New Middle East?" by Ted Rall
  • Murder in Samarkand - A British Ambassador's Controversial Defiance of Tyranny in the War on Terror by Craig Murray

Tham khảo

[sửa | sửa mã nguồn]
  1. ^ “Constitution of the Republic of Uzbekistan”. ksu.uz. Lưu trữ bản gốc ngày 27 tháng 6 năm 2016. Truy cập ngày 1 tháng 1 năm 2015.
  2. ^ a b “Uzbekistan: Law "On Official Language". Refworld.
  3. ^ “Constitution of the Republic of Uzbekistan”. constitution.uz. constitution.uz. Truy cập ngày 1 tháng 9 năm 2020.
  4. ^ “Uzbek Community Profile” (PDF). Social Services. Bản gốc (PDF) lưu trữ ngày 8 tháng 8 năm 2019.
  5. ^ Юрий Подпоренко. “Бесправен, но востребован. Русский язык в Узбекистане”.
  6. ^ “The World Factbook: Central Asia - Uzbekistan”. Central Intelligence Agency. Bản gốc lưu trữ ngày 9 tháng 7 năm 2016. Truy cập ngày 19 tháng 5 năm 2019.
  7. ^ “Демографическая ситуация (январь-март 2020 года)”. Stat.uz. ngày 27 tháng 4 năm 2020. Bản gốc lưu trữ ngày 4 tháng 9 năm 2020. Truy cập ngày 25 tháng 12 năm 2020.
  8. ^ a b c d Uzbekistan. International Monetary Fund
  9. ^ “Income Gini coefficient | Human Development Reports”. hdr.undp.org. Lưu trữ bản gốc ngày 10 tháng 6 năm 2010. Truy cập ngày 6 tháng 12 năm 2017.
  10. ^ “GINI index – Uzbekistan”. MECOMeter – Macro Economy Meter. Lưu trữ bản gốc ngày 4 tháng 4 năm 2015. Truy cập ngày 6 tháng 12 năm 2017.
  11. ^ Human Development Report 2020 The Next Frontier: Human Development and the Anthropocene (PDF). United Nations Development Programme. ngày 15 tháng 12 năm 2020. tr. 343–346. ISBN 978-92-1-126442-5. Truy cập ngày 16 tháng 12 năm 2020.
  12. ^ a b c [1]
  13. ^ [2]
  14. ^ GNI per capita, Atlas method (current US$) - Uzbekistan, World Bank
  15. ^ GNI per capita, PPP (current international $) - Uzbekistan, World Bank
  16. ^ [3]
  17. ^ a b “Bản sao đã lưu trữ”. Bản gốc lưu trữ ngày 9 tháng 7 năm 2016. Truy cập ngày 23 tháng 7 năm 2007.
  18. ^ “Bản sao đã lưu trữ”. Bản gốc lưu trữ ngày 22 tháng 9 năm 2008. Truy cập ngày 23 tháng 7 năm 2007.
  19. ^ “Bản sao đã lưu trữ”. Lưu trữ bản gốc ngày 22 tháng 9 năm 2008. Truy cập ngày 23 tháng 7 năm 2007.Quản lý CS1: bot: trạng thái URL ban đầu không rõ (liên kết)
  20. ^ “Bản sao đã lưu trữ”. Bản gốc lưu trữ ngày 8 tháng 8 năm 2009. Truy cập ngày 23 tháng 7 năm 2007.
  21. ^ [4]
  22. ^ [5]
  23. ^ [6]
  24. ^ [7]
  25. ^ “Bản sao đã lưu trữ”. Bản gốc lưu trữ ngày 20 tháng 11 năm 2010. Truy cập ngày 23 tháng 7 năm 2007.
  26. ^ “Bản sao đã lưu trữ”. Lưu trữ bản gốc ngày 20 tháng 11 năm 2010. Truy cập ngày 23 tháng 7 năm 2007.Quản lý CS1: bot: trạng thái URL ban đầu không rõ (liên kết)
  27. ^ [8]
  28. ^ “Bản sao đã lưu trữ” (PDF). Bản gốc (PDF) lưu trữ ngày 15 tháng 8 năm 2008. Truy cập ngày 23 tháng 7 năm 2007.
  29. ^ “Bản sao đã lưu trữ” (PDF). Lưu trữ bản gốc ngày 15 tháng 8 năm 2008. Truy cập ngày 23 tháng 7 năm 2007.Quản lý CS1: bot: trạng thái URL ban đầu không rõ (liên kết)
  30. ^ “Bản sao đã lưu trữ”. Bản gốc lưu trữ ngày 16 tháng 5 năm 2011. Truy cập ngày 23 tháng 7 năm 2007.
  31. ^ [9]
  32. ^ July 2007 estimate; CIA World factbook, Uzbekistan Lưu trữ 2016-07-09 tại Wayback Machine
  33. ^ Uzbek leader sounds warning over Central Asia water disputes, Reuters, SEPTEMBER 7, 2012
  34. ^ 1996 data; CIA World factbook, Uzbekistan Lưu trữ 2016-07-09 tại Wayback Machine
  35. ^ D. Carlson, "Uzbekistan: Ethnic Composition and Discriminations", Harvard University, August 2003
  36. ^ “Bản sao đã lưu trữ”. Bản gốc lưu trữ ngày 15 tháng 7 năm 2007. Truy cập ngày 17 tháng 4 năm 2022.
  37. ^ “Bản sao đã lưu trữ”. Lưu trữ bản gốc ngày 15 tháng 7 năm 2007. Truy cập ngày 27 tháng 5 năm 2021.Quản lý CS1: bot: trạng thái URL ban đầu không rõ (liên kết)
  38. ^ [10]
  39. ^ “Bản sao đã lưu trữ”. Bản gốc lưu trữ ngày 2 tháng 2 năm 2007. Truy cập ngày 2 tháng 4 năm 2021.
  40. ^ “Bản sao đã lưu trữ”. Bản gốc lưu trữ ngày 2 tháng 2 năm 2007. Truy cập ngày 2 tháng 4 năm 2021.
  41. ^ [11]
  42. ^ “Bản sao đã lưu trữ”. Bản gốc lưu trữ ngày 25 tháng 3 năm 2017. Truy cập ngày 27 tháng 5 năm 2021.
  43. ^ “Bản sao đã lưu trữ”. Lưu trữ bản gốc ngày 25 tháng 3 năm 2017. Truy cập ngày 27 tháng 5 năm 2021.Quản lý CS1: bot: trạng thái URL ban đầu không rõ (liên kết)
  44. ^ [12]
  45. ^ [13]
  46. ^ [14][15]
  47. ^ [16]
  48. ^ [17]
  49. ^ “Bản sao đã lưu trữ”. Lưu trữ bản gốc ngày 30 tháng 9 năm 2007. Truy cập ngày 23 tháng 7 năm 2007.Quản lý CS1: bot: trạng thái URL ban đầu không rõ (liên kết)
  50. ^ “Bản sao đã lưu trữ”. Bản gốc lưu trữ ngày 30 tháng 9 năm 2007. Truy cập ngày 23 tháng 7 năm 2007.
  51. ^ “Bản sao đã lưu trữ”. Lưu trữ bản gốc ngày 30 tháng 9 năm 2007. Truy cập ngày 23 tháng 7 năm 2007.Quản lý CS1: bot: trạng thái URL ban đầu không rõ (liên kết)
  52. ^ “Middle East:: UZBEKISTAN”. CIA The World Factbook. Bản gốc lưu trữ ngày 9 tháng 7 năm 2016. Truy cập ngày 23 tháng 7 năm 2007.
  53. ^ State.gov. ngày 19 tháng 8 năm 2010. Truy cập ngày 28 tháng 1 năm 2011.
  54. ^ Pew Forum on Religion & Public Life (October 2009)

Liên kết ngoài

[sửa | sửa mã nguồn]