Bước tới nội dung

Mon Laferte

Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Mon Laferte
Thông tin nghệ sĩ
Tên khai sinhNorma Monserrat Bustamante Laferte
Tên gọi khácMon Laferte
Sinh2 tháng 5, 1983 (41 tuổi)
Viña del Mar, Chile
Thể loại
Nghề nghiệpCa sĩ-nhạc sĩ
Nhạc cụThanh nhạc, guitar, piano, trống, harmonica
Năm hoạt động1995–hiện tại
Hãng đĩaWarner Music, Independent (2011-2015), Discos Valiente/Universal Music (2015-present)
Websitemonlaferte.com

Norma Monserrat Bustamante Laferte (sinh ngày 2 tháng 5 năm 1983), được biết đến nhiều hơn với nghệ danh Mon Laferte, là một ca sĩ-nhạc sĩ và nữ diễn viên người Chile.

Những năm đầu và học vấn

[sửa | sửa mã nguồn]

Laferte được sinh ra ở Viña del Mar. Cô pha trộn phong cách âm nhạc của mình với rock, blues, pop, bolero và eletronic. Cô bắt đầu sự nghiệp của mình lúc 9 tuổi, sau khi chiến thắng được một cây guitar trong một cuộc thi hát[1]. Cô gia nhập một nhạc viện ở Viña del Mar, Chile ở tuổi 13.[2] Ngay sau đó, cô bắt đầu chơi trong các quán bar ở ValparaísoSantiago.

Sự nghiệp

[sửa | sửa mã nguồn]

Vào năm 2003, cô phát hành album phòng thu đầu tiên của mình mang tên La Chica de Rojo. Vào năm 2009, Laferte được chẩn đoán mắc bệnh ung thư tuyến giáp.[3] Nhưng hai năm sau, cô thu âm album thứ hai của mình dưới nghệ danh Mon Laferte, có tiêu đề Desechable. Vào năm tiếp theo, cô được mời để làm giám khảo mùa thứ hai của The X Factor phiên bản Chile, gọi là Factor X, cùng với Karen Doggenweiler, Tito Beltrán và José Luis Rodríguez.

Vào năm 2007, Mon Laferte quyết định bắt đầu một chương mới trong sự nghiệp âm nhạc của mình bằng cách chuyển từ Chile đến Thành phố México, nơi cô bắt đầu một dự án mới với những bài hát và âm nhạc của riêng mình, đạt được một sự nghiệp thành công ở México và nổi tiếng khắp Nam Mỹ.

Lịch sử âm nhạc

[sửa | sửa mã nguồn]
  • Album phòng thu:
    • 2003: La chica de Rojo (the artist is presented as Monserrat Bustamante)
    • 2011: Desechable
    • 2013: Tornasol
    • 2015: Mon Laferte Vol.1
    • 2017: La Trenza
    • 2018: Norma
  • Album của Mystica Girls:
    • 2012: MetalRose 2012 [4]
    • 2014: Gates of Hell

Đĩa đơn

[sửa | sửa mã nguồn]
  • 2009: "Lo mismo que yo"
  • 2011: "Soy"
  • 2011: "Depresión"
  • 2011: "Tóxico"
  • 2012: "Desechable"
  • 2012: "Un solo hombre no puedo tener"
  • 2013: "Ángel negro"
  • 2013: "Hey hey"
  • 2013: "Tornasol"
  • 2014: "Cielito de abril"
  • 2014: "Lo que pido"
  • 2014: "Orgasmo para dos"
  • 2015: "Tormento"
  • 2015: "Amor completo"
  • 2015: "Tu falta de querer"
  • 2015: "Si tú me quisieras"
  • 2017: "Amárrame" (feat. Juanes)
  • 2017: "Mi buen amor" (feat. Enrique Bunbury)
  • 2017: "Primaveral"
  • 2018: "Antes de ti"

Đĩa đơn quảng bá

[sửa | sửa mã nguồn]
  • 2009: Lo Mismo Que Yo
  • 2012: Vuelve Por Favor
  • 2013: Serena
  • 2016: Todos quieren ser un gato jazz (with Esteman and Caloncho)
  • 2017: Yo Te Qui

Nghệ sĩ góp giọng

[sửa | sửa mã nguồn]
  • 2017: Palmar (feat. Mon Laferte) - Caloncho
  • 2017: Funcional (feat. Mon Laferte) - Okills

Lịch sử điện ảnh

[sửa | sửa mã nguồn]
Phim
Năm Phim Vai Ghi chú
2006 Rojo, La Pelicula Belén Chilean film
2013 Japy Ending Eli Peruvian film
Truyền hình
Năm Chương trình Vai
2003–2007 Rojo Fama Contrafama Contestant
2006–2007 El Baile en TVN Singer
2012 Factor X Judge and mentor

Tham khảo

[sửa | sửa mã nguồn]
  1. ^ “El ritmo latino de Mon Laferte”. ngày 9 tháng 6 năm 2017.
  2. ^ “Mon Laferte”. Mon Laferte. Bản gốc lưu trữ ngày 1 tháng 6 năm 2019. Truy cập ngày 14 tháng 7 năm 2016.
  3. ^ S.A.P., El Mercurio. “El radical giro de Mon Laferte: "Ya no me reconocen". lasegunda.com. La Segunda. Truy cập ngày 1 tháng 7 năm 2016.
  4. ^ “MetalRose 2012 Featuring Monlaferte *English Edition* by Mystica Girls on iTunes”. apple.com. Truy cập ngày 1 tháng 7 năm 2016.

Liên kết ngoài

[sửa | sửa mã nguồn]