Bước tới nội dung

Nelly Sachs

Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Nelly Sachs
Thông tin cá nhân
Sinh
Tên khai sinh
Leonie Sachs
Ngày sinh
10 tháng 12, 1891
Mất
Ngày mất
12 tháng 5, 1970
Nguyên nhân
ung thư ruột
An nghỉNghĩa trang Bắc Mosaic
Giới tínhnữ
Tôn giáoDo Thái giáo
Gia đình
Hôn nhân
không có
Lĩnh vựcthơ
Sự nghiệp nghệ thuật
Thành viên củaHọc viện Ngôn ngữ và Văn học Đức, Học viện Mỹ thuật Bavarian
Giải thưởng
Giải Nobel 1966
Văn học
Chữ ký
Nelly Sachs năm 1966

Nelly Sachs (10 tháng 12 năm 1891 - 12 tháng 5 năm 1970) là một nhà thơ người Đức đoạt giải Nobel Văn học năm 1966.

Tiểu sử

[sửa | sửa mã nguồn]

Nelly Sachs sinh trong một gia đình Do Thái giàu có ở Berlin. Từ nhỏ đã yêu thích âm nhạc, văn chương, làm thơ đăng trên một số báo và in một cuốn sách bao gồm những giai thoại và truyền thuyết. Năm lên 15 tuổi Nelly Sachs đọc tiểu thuyết Gostar Berlings Saga của nữ nhà văn Thụy Điển Selma Lagerlof, cuốn sách đã để lại trong lòng Nelly Sachs một ấn tượng vô cùng sâu sắc và cô đã viết thư cho Selma Lagerlof. Kể từ đó hai người tiếp tục thư từ cho đến khi Selma Lagerlof mất.

Năm lên 18 tuổi Nelly Sachs bắt đầu làm thơ về thiên nhiên và dựa trên những câu truyện cổ tích, một số bài thơ được đăng trên các báo. Sau khi bố mất và Adolf Hitler lên nắm quyền ở Đức, Nelly Sachs cùng mẹ sống một cuộc sống thu mình, không tiếp xúc với xã hội bên ngoài.

Năm 1940, nước Đức đánh chiếm châu Âu và khủng bố người Do Thái, Nelly Sachs trốn sang Thụy Điển và ở đây tiếp tục sáng tác và dịch thuật. Tập thơ đầu tiên sau chiến tranh của bà In den Wohnungen des Todes (Trong ngôi nhà của tử thần) xuất bản tại Đông Đức năm 1947. Thơ Nelly Sachs mang tư tưởng nhân đạo, thường nói về nỗi thống khổ và niềm hi vọng của dân tộc Do Thái, chịu ảnh hưởng bởi thơ ca truyền thống Do Thái và chủ nghĩa thần bí cổ đại Đức. Từ sau chiến tranh bà còn viết một số vở kịch, nhưng tác phẩm khiến bà nổi tiếng nhất là Fluch und Verwandlung (Trốn chạy và biến đổi, 1959). Sau tập thơ này bà được trao giải thưởng Anetta von Droste Hulsoff và chính quyền Dortmund đã lập ra một giải thưởng văn học hàng năm mang tên Nelly Sachs và cấp cho bà một chế độ trợ cấp trọn đời.

Nelly Sachs được tặng nhiều giải thưởng, trong đó có Giải Hòa bình của ngành kinh doanh sách Đức năm 1965, giải Nobel bà nhận cùng với nhà văn Do Thái khác là Shmuel Yosef Agnon. Nelly Sachs mất tại Stockholm.

Tác phẩm

[sửa | sửa mã nguồn]
  • In den Wohnungen des Todes (Trong ngôi nhà của tử thần, 1946), thơ.
  • Stern ver dunkelung (Che mờ các ngôi sao, 1949),thơ.
  • Und niemand weiss weiter (Không ai biết được sẽ ra sao, 1957), thơ.
  • Fluch und Verwandlung (Trốn chạy và biến đổi, 1959), thơ.
  • Eli: Ein Mysterienspiel vom Leiden Israels (Eli: Bí kịch về những đau khổ của Israel, 1951), kịch.
  • Zeichen im Sand (Những dấu hiệu trên cát, 1962), tập kịch.

Một số bài thơ

[sửa | sửa mã nguồn]
Các dân tộc trên đời
Các dân tộc trên đời
hãy bằng sức mạnh những vì sao xa xôi
quấn vào như búp sợi
hãy đan, rồi tháo, rồi đan lại
cho trộn lẫn những lời
như cái tổ ong
châm chích cho thoả lòng
và để cho ong cắn lại.
Các dân tộc trên đời
chớ hủy hoại những lời hoàn vũ
chớ chia cắt bằng dao lòng thù hận khắp nơi
tiếng động sinh ra cùng hơi thở!
Các dân tộc trên đời
có ai không hiểu ngầm cái chết
khi nói "cuộc đời"
có ai không hiểu rằng máu thịt
khi nói "vành nôi"!
Các dân tộc trên đời
những lời nói nơi ngọn nguồn bỏ lại
bởi chúng sẽ quay về với
những chân trời
bằng mặt trái của mình
sự sơ suất che đêm lại
để những vì sao sẽ hồi sinh.
Những người già
Ở đây
Trong kho chứa của những ngôi sao này
Trời đêm che lên từng mảng
Họ đứng và đợi Chúa Trời.
Những móc sắt han gỉ cùm miệng họ
Lưỡi lặng câm. Chỉ những đôi mắt nói lời
Trong những đôi mắt – là những cái giếng xác chết chất đầy
Ô, những người già mang những đứa trẻ bị thiêu trong mắt
Như tài sản duy nhất của họ trên đời…
Những người già đứng đấy
Đêm cắt vào giấc ngủ
Vào bầu trời đêm họ dõi mắt nhìn
Họ đợi Chúa Trời với vì sao cháy lên.
Những bàn tay giơ vào trời xanh
Những đôi môi cháy sém
Những đôi môi câm nín
Trong tiếng kêu lạc lối những hành tinh.
Chỉ những đôi mắt không ngủ bao giờ
Bầy quạ đen trên đám mồi bay liệng
Chìm trong nước mắt và luôn tái hiện
Quạ canh chừng những đứa trẻ cháy thành tro.
Ô, những người già mang những nấm mồ:
Ký ức đắng cay của những ngày khiếp đảm!
Họ vẫn đợi, kiên gan, dù Chúa Trời im lặng
Không vội vàng từ xứ sở những vì sao…
Bản dịch của Nguyễn Viết Thắng
Anh ở nơi đêm ở
Anh ở
nơi đêm ở
cùng với những người học quên cõi trần gian
từ xa xăm
ngón tay của anh điểm tô trận đấu
bằng tiếng nhạc của bản đồ một biển xa xăm
những nốt nhạc trong đôi tai của anh
những cây cầu là cơ sở
từ Đây đến Đó
và một nhiệm vụ giản đơn
mà câu trả lời
chỉ những người đang hấp hối biết.
Khoảng lặng ngừng
Vào giờ khắc
Khi thời gian trở nên trong suốt
Và mặt trời khuất sau chân trời
Trên ngôi mộ chung hoa lá phủ đầy
Thì cuộc sống ở bên kia thế giới
Sẽ báo tin về người.
Sự ánh lên của những cành lá cọ
Là chân lý của sự cô độc hoang vu.
Cuộc đời trước
Trong lời cầu nguyện ánh lên
Và ngủ yên trên mạch nguồn cẩm thạch
Từ đôi tai của vỏ ốc
Tiếng nhạc vang lên.
Ô đại dương mênh mông trong đôi tai nhỏ nhắn
Ôi vũ điệu của tình
Bìa của cuốn sách thời gian mỏng mảnh.
Đấy từng là cuộc sống
Giấc ngủ dửng dưng trong không gian ma thuật màu đen
Cái gai nhọn bị lãng quên
Và hoa hồng nhuốm máu
Thấm vào ký ức đã từng.
Tia chớp hình răng cưa
Chiếu vào vũ hội hóa trang của bão
Bờ xương voi
Chìm vào bóng tối.
Khi ngày lặng ngừng
Khi ngày lặng ngừng
vào buổi hoàng hôn
khi giờ không hình thức đến
những giọng cô đơn hòa quyện vào nhau
khi động vật không trở nên thú dữ
hoặc những con mồi
chỉ những bông hoa là vẫn có mùi
khi tất cả trở thành vô danh tiếng
như đã từng trong buổi Đầu Tiên
anh đi dưới hầm mộ của thời gian
mà người mở cửa là người đứng ở Cuối Cùng
ở đó những con tim đang lớn
trong bản chất tối đêm
và anh đi xuống
cái chết đã ở lại sau lưng
nó chỉ là một điểm thoáng qua trên con đường
và anh đừng nhìn về phía cửa
mà đôi mắt hãy mở
để thấy một ngôi sao mới
ngôi sao bỏ lại ánh sáng của mình.

Tham khảo

[sửa | sửa mã nguồn]

Liên kết ngoài

[sửa | sửa mã nguồn]