Bước tới nội dung

Oxozon

Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Oxozon
Mô hình phân tử oxozon
Tên khácTetraoxy
Nhận dạng
Số CAS12596-83-7
Thuộc tính
Công thức phân tửO4
Khối lượng mol63,9976 g/mol
Bề ngoàichất rắn màu xanh da trời
Điểm nóng chảy
Điểm sôi
Trừ khi có ghi chú khác, dữ liệu được cung cấp cho các vật liệu trong trạng thái tiêu chuẩn của chúng (ở 25 °C [77 °F], 100 kPa).

Oxozon, cũng được gọi là "tetraoxy" là một đơn chất có công thức hóa học O4. Hợp chất này tồn tại dưới dạng chất rắn màu xanh da trời và là một dạng thù hình mới được phát hiện của oxy. Oxozon lần đầu tiên được dự đoán bởi Gilbert N. Lewis, người đã đề xuất nó nhằm giải thích cho sự sai sót của oxy lỏng tuân theo định luật Curie[1]. Các máy tính mô phỏng chỉ ra rằng mặc dù không có phân tử O4 ổn định trong oxy lỏng, các phân tử O2 có khuynh hướng liên kết theo cặp với spin song song, tạo thành các đơn vị O4 với mật độ nhỏ[2].Vào năm 1999, các nhà nghiên cứu cho rằng oxy rắn tồn tại trong pha của nó (ở áp suất trên 10 GPa) là O4[3]. Tuy nhiên, vào năm 2006, chất này được nghiên cứu bằng tinh thể học tia X, cho thấy chất ổn định này được gọi là ε-oxy hoặc oxy đỏ, nhưng thực tế chất này là O8.[4] Tuy nhiên, oxozon tích điện dương đã được phát hiện là một loại hóa chất có thời gian tồn tại ngắn trong các thí nghiệm khối phổ.[5].

Điều chế

[sửa | sửa mã nguồn]

Oxozon được điều chế bằng cách nén oxy dưới áp suất khoảng 20 GPa.

Tính chất vật lý

[sửa | sửa mã nguồn]

Oxozon tồn tại dưới dạng chất rắn màu xanh da trời.

Tính chất hóa học

[sửa | sửa mã nguồn]

Oxozon có tính oxy hóa mạnh hơn oxyozon. Một bằng chứng cho thấy oxozon có tính oxy hóa mạnh hơn oxy và ozon là oxozon oxy hóa bạc nhanh hơn so với ozon.

Phổ sóng hấp thụ

[sửa | sửa mã nguồn]

Các dải sóng hấp thụ của phân tử O4 ở 360, 477 và 577 nm thường được sử dụng để đảo ngược aerosol trong quang phổ hấp thụ quang học khí quyển. Sự phân bố của O2, và cả O4, từ đó cũng có thể truy xuất các cấu hình sol khí mà sau đó có thể được sử dụng lại trong các mô hình truyền bức xạ để mô tả các đường sáng.[6].

Tham khảo

[sửa | sửa mã nguồn]
  1. ^ Lewis, Gilbert N. (1924). “The Magnetism of Oxygen and the Molecule O4”. Journal of the American Chemical Society. 46 (9): 2027–2032. doi:10.1021/ja01674a008.
  2. ^ Oda, Tatsuki; Alfredo Pasquarello (2004). “Noncollinear magnetism in liquid oxygen: A first-principles molecular dynamics study”. Physical Review B. 70 (134402): 1–19. Bibcode:2004PhRvB..70m4402O. doi:10.1103/PhysRevB.70.134402.
  3. ^ Gorelli, Federico A.; Lorenzo Ulivi; Mario Santoro; Roberto Bini (1999). “The ε Phase of Solid Oxygen: Evidence of an O4 Molecule Lattice”. Physical Review Letters. 83 (20): 4093–4096. Bibcode:1999PhRvL..83.4093G. doi:10.1103/PhysRevLett.83.4093.
  4. ^ Lars F. Lundegaard, Gunnar Weck, Malcolm I. McMahon, Serge Desgreniers and Paul Loubeyre (2006). “Observation of an O8 molecular lattice in the phase of solid oxygen”. Nature. 443 (7108): 201–204. Bibcode:2006Natur.443..201L. doi:10.1038/nature05174. PMID 16971946.Quản lý CS1: nhiều tên: danh sách tác giả (liên kết)
  5. ^ Cacace, Fulvio; Giulia de Petris; Anna Troiani (2001). “Experimental Detection of Tetraoxygen”. Angewandte Chemie International Edition. 40 (21): 4062–4065. doi:10.1002/1521-3773(20011105)40:21<4062::AID-ANIE4062>3.0.CO;2-X. PMID 12404493.
  6. ^ Friess, U. and Monks, P. S. and Remedios, J. J. and Wagner, T. and Platt, U. (2005). “MAX-DOAS O4 measurements: A new technique to derive information on atmospheric aerosols - Retrieval of aerosol properties”. Journal of Geophysical Research. Bibcode:2004JGRD..10922205W. doi:10.1029/2004jd004904.Quản lý CS1: nhiều tên: danh sách tác giả (liên kết)