Bước tới nội dung

Éric Abidal

Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
(Đổi hướng từ Eric Abidal)
Éric Abidal
Abidal tập luyện với Barcelona năm 2008
Thông tin cá nhân
Tên đầy đủ Éric Sylvain Abidal[1]
Ngày sinh 11 tháng 9, 1979 (45 tuổi)
Nơi sinh Lyon, Pháp
Chiều cao 1,86 m (6 ft 1 in)
Vị trí Hậu vệ
Sự nghiệp cầu thủ trẻ
Năm Đội
Lyon Duchère
Sự nghiệp cầu thủ chuyên nghiệp*
Năm Đội ST (BT)
1999–2000 Lyon Duchère
2000–2001 Monaco B 8 (0)
2000–2002 Monaco 22 (0)
2002–2004 Lille 62 (0)
2004–2007 Lyon 76 (0)
2007–2013 Barcelona 125 (1)
2013–2014 Monaco 26 (0)
2014 Olympiakos 9 (0)
Tổng cộng 328 (1)
Sự nghiệp đội tuyển quốc gia
Năm Đội ST (BT)
2004–2013 Pháp 67 (0)
Thành tích huy chương
Bóng đá nam
Đại diện cho  Pháp
FIFA World Cup
Á quân Đức 2006
*Số trận ra sân và số bàn thắng ở câu lạc bộ tại giải quốc gia

Éric Sylvain Abidal (phát âm tiếng Pháp: ​[eʁik abidal]; sinh ngày 11 tháng 9 năm 1979), còn có biệt danh Vua Eric, là một cựu cầu thủ bóng đá người Pháp chơi ở vị trí hậu vệ trái. Anh cũng có thể chơi ở vị trí trung vệ. Sau khi giải nghệ, anh từng có thời gian giữ vai trò Giám đốc thể thao câu lạc bộ Barcelona.

Sự nghiệp câu lạc bộ

[sửa | sửa mã nguồn]
Abidal trước thềm trận chung kết FIFA Club World Cup 2009.

Abidal bắt đầu sự nghiệp ở Lyon Duchère, đội bóng ở ngoại ô Lyon. Anh bắt đầu sự nghiệp thi đấu chuyên nghiệp cùng AS Monaco, nơi anh có 22 lần ra sân. Anh chuyển tới Lille và có 62 lần ra sân. Cuối năm 2004, anh trở lại quê nhà bằng việc gia nhập Olympique Lyonnais. Trong thời gian ở Pháp, anh được đánh giá là một trong những hậu vệ xuất sắc nhất Ligue 1. Vào ngày 30 tháng 6 năm 2007, Abidal chuyển về FC Barcelona với giá 15 triệu euro cùng bản hợp đồng 5 năm. Tại đây anh sẽ mặc chiếc áo số 22. Mức phí để phá hợp đồng của Abidal là 9 triệu euro và Lyon sẽ được thêm 500,000 euro nữa nếu Barca vô địch UEFA Champions League trong một trong 4 mùa giải tiếp theo.

Abidal có trận đấu đầu tiên tại La Liga vào ngày 26 tháng 8 năm 2007, trong trận hòa 0–0 trước Racing de Santander. Anh kết thúc mùa giải với 30 trận ra sân.

Ngày 8 tháng 6 năm 2013, Abidal trở về Monaco sau 11 năm, ký hợp đồng 1 mùa giải và sẽ mặc chiếc áo số 22. Chiếc áo số 22 của anh tại Barcelona sẽ được giữ bởi Dani Alves[2].

Thi đấu quốc tế

[sửa | sửa mã nguồn]

Abidal đã có 52 trận đấu cùng Pháp, có trận ra mắt vào ngày 18 tháng 8 năm 2004. Mặc dù bị dính nhiều chấn thương và những bất đồng cùng FIFA trong một số mùa giải trước đó, Abidal vẫn tham dự World Cup 2006 và chơi đầy đủ tất cả các trận trừ trận gặp đội tuyển bóng đá quốc gia Togo.

Anh trở thành sự lựa chọn số 1 của Pháp dưới thời Raymond Domenech ở vị trí hậu vệ trái tại vòng loại Euro 2008. Anh được chọn là trung vệ trong trận gặp Ý tại vòng bảng Euro 2008, nhưng bị nhận thẻ đỏ và gây ra một quả penalty ngay từ phút thứ 9 của trận đấu. Pháp thua 2-0 và bị loại khỏi giải đấu.

Danh hiệu

[sửa | sửa mã nguồn]

Lyon

Barcelona

Cá nhân
  • Đội hình tiêu biểu UEFA của năm: (1) (2007)

Tham khảo

[sửa | sửa mã nguồn]
  1. ^ “FIFA World Cup South Africa 2010 – List of players” (PDF). FIFA.com. Truy cập ngày 16 tháng 6 năm 2010.[liên kết hỏng]
  2. ^ “Dani Alves Offered to Donate his Liver to Abidal”. Soccerly. Bản gốc lưu trữ ngày 21 tháng 10 năm 2013. Truy cập 12 tháng 3 năm 2015. no-break space character trong |tiêu đề= tại ký tự số 42 (trợ giúp)

Liên kết ngoài

[sửa | sửa mã nguồn]